Liệu những người Mỹ có mặt ngay tại Afghanistan vẫn bị bỏ qua?

Biểu tình ở Westwood, California 2002. Ảnh: Carolyn Cole/Los Angeles Times qua Getty Images

 

của Medea Benjamin và Nicolas JS Davies, CODEPINK, ngày 21 tháng 2021 năm XNUMX

Các phương tiện truyền thông doanh nghiệp của Mỹ đang reo lên với những đánh giá về thất bại nhục nhã của quân đội Mỹ ở Afghanistan. Nhưng rất ít lời chỉ trích đi vào gốc rễ của vấn đề, đó là quyết định ban đầu về quân sự xâm lược và chiếm đóng Afghanistan ngay từ đầu.

Quyết định đó đã tạo ra một chu kỳ bạo lực và hỗn loạn mà không chính sách hay chiến lược quân sự tiếp theo nào của Mỹ có thể giải quyết được trong 20 năm tới, ở Afghanistan, Iraq hoặc bất kỳ quốc gia nào khác bị cuốn vào các cuộc chiến tranh hậu 9/11 của Mỹ.

Trong khi người Mỹ đang choáng váng trước hình ảnh máy bay đâm vào các tòa nhà ngày 11/2001/XNUMX thì Bộ trưởng Quốc phòng Rumsfeld lại tổ chức một cuộc họp tại một khu vực còn nguyên vẹn của Lầu Năm Góc. Dưới thư ký Ghi chú của Cambone từ cuộc họp đó cho thấy các quan chức Hoa Kỳ đã chuẩn bị nhanh chóng và mù quáng như thế nào để đẩy đất nước chúng ta vào nghĩa địa của đế quốc ở Afghanistan, Iraq và xa hơn nữa.

Cambone viết rằng Rumsfeld muốn, “…thông tin tốt nhất nhanh chóng. Đánh giá xem có đủ tốt để đánh SH (Saddam Hussein) cùng lúc – không chỉ UBL (Usama Bin Laden)… Đi lớn. Quét tất cả lên. Những thứ liên quan và không.”

Vì vậy, trong vòng vài giờ sau những tội ác khủng khiếp này ở Hoa Kỳ, câu hỏi trọng tâm mà các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ đặt ra không phải là làm thế nào để điều tra chúng và buộc thủ phạm phải chịu trách nhiệm, mà là làm thế nào để sử dụng thời điểm “Trân Châu Cảng” này để biện minh cho chiến tranh, thay đổi chế độ và chủ nghĩa quân phiệt. trên quy mô toàn cầu.

Ba ngày sau, Quốc hội thông qua dự luật cho phép tổng thống được quyền sử dụng lực lượng quân sự “…chống lại những quốc gia, tổ chức hoặc cá nhân mà anh ta xác định là đã lên kế hoạch, ủy quyền, thực hiện hoặc hỗ trợ các cuộc tấn công khủng bố xảy ra vào ngày 11 tháng 2001 năm XNUMX hoặc chứa chấp các tổ chức hoặc cá nhân đó…”

Năm 2016, Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội báo cáo rằng Giấy phép sử dụng lực lượng quân sự (AUMF) này đã được viện dẫn để biện minh cho 37 hoạt động quân sự riêng biệt ở 14 quốc gia khác nhau và trên biển. Đại đa số những người bị giết, bị thương tật hoặc phải di dời trong các chiến dịch này không liên quan gì đến tội ác ngày 11 tháng 9. Các chính quyền kế tiếp đã nhiều lần phớt lờ nội dung thực tế của giấy ủy quyền, vốn chỉ cho phép sử dụng vũ lực chống lại những người liên quan theo một cách nào đó. trong vụ tấn công 11/XNUMX.

Thành viên duy nhất của Quốc hội có sự khôn ngoan và can đảm để bỏ phiếu chống lại AUMF năm 2001 là Barbara Lee của Oakland. Lee so sánh nó với nghị quyết Vịnh Bắc Bộ năm 1964 và cảnh báo các đồng nghiệp của mình rằng nó chắc chắn sẽ được sử dụng theo cách mở rộng và bất hợp pháp tương tự. Lời cuối cùng của cô bài phát biểu sàn vang vọng từ trước qua vòng xoáy bạo lực, hỗn loạn và tội ác chiến tranh kéo dài 20 năm mà nó gây ra, “Khi chúng ta hành động, chúng ta đừng trở thành cái ác mà chúng ta thương tiếc.”

Trong cuộc họp ở Trại David cuối tuần đó, Thứ trưởng Wolfowitz đã tranh luận gay gắt về việc tấn công Iraq, thậm chí trước cả Afghanistan. Bush nhấn mạnh Afghanistan phải được ưu tiên hàng đầu, nhưng riêng tư hứa Chủ tịch Ủy ban Chính sách Quốc phòng Richard Perle rằng Iraq sẽ là mục tiêu tiếp theo của họ.

Trong những ngày sau ngày 11 tháng XNUMX, giới truyền thông doanh nghiệp Hoa Kỳ đã đi theo sự dẫn dắt của chính quyền Bush, và công chúng chỉ nghe thấy những tiếng nói hiếm hoi, biệt lập đặt câu hỏi liệu chiến tranh có phải là phản ứng đúng đắn đối với những tội ác đã gây ra hay không.

Nhưng cựu công tố viên tội phạm chiến tranh Nuremberg Ben Ferencz đã nói chuyện với NPR (Đài phát thanh công cộng quốc gia) một tuần sau vụ 9/11, và ông giải thích rằng tấn công Afghanistan không chỉ là hành động thiếu khôn ngoan và nguy hiểm mà còn không phải là phản ứng chính đáng đối với những tội ác này. Katy Clark của NPR cố gắng hiểu những gì anh ấy đang nói:

“Clark:

…bạn có nghĩ rằng cuộc nói chuyện về việc trả thù không phải là phản ứng chính đáng trước cái chết của 5,000 (sic) người không?

Ferencz:

Việc trừng phạt những người không chịu trách nhiệm về hành vi sai trái không bao giờ là một phản ứng chính đáng.

Clark:

Không ai nói rằng chúng tôi sẽ trừng phạt những người không chịu trách nhiệm.

Ferencz:

Chúng ta phải phân biệt giữa trừng phạt kẻ có tội và trừng phạt người khác. Nếu bạn đơn giản trả đũa hàng loạt bằng cách ném bom Afghanistan, chẳng hạn, hoặc Taliban, bạn sẽ giết nhiều người không tin vào những gì đã xảy ra, những người không tán thành những gì đã xảy ra.

Clark:

Vì vậy, bạn đang nói rằng bạn thấy quân đội không có vai trò thích hợp trong việc này.

Ferencz:

Tôi không nói rằng không có vai trò nào phù hợp, nhưng vai trò đó phải phù hợp với lý tưởng của chúng tôi. Chúng ta không nên để họ giết chết các nguyên tắc của chúng ta đồng thời giết chết con người của chúng ta. Và nguyên tắc của chúng tôi là tôn trọng pháp quyền. Không xông vào giết người một cách mù quáng vì chúng ta bị mù quáng bởi nước mắt và cơn thịnh nộ của mình.”

Tiếng trống chiến tranh tràn ngập các làn sóng phát thanh, biến vụ 9/11 thành một câu chuyện tuyên truyền mạnh mẽ nhằm khơi dậy nỗi sợ hãi khủng bố và biện minh cho cuộc tiến quân tới chiến tranh. Nhưng nhiều người Mỹ chia sẻ sự dè dặt của Hạ nghị sĩ Barbara Lee và Ben Ferencz, hiểu đủ về lịch sử đất nước họ để nhận ra rằng thảm kịch 9/11 đã bị tấn công bởi chính tổ hợp công nghiệp-quân sự đã tạo ra sự sụp đổ ở Việt Nam và tiếp tục tái tạo lại thế hệ của mình. sau thế hệ để hỗ trợ và lợi nhuận từ Chiến tranh, đảo chính và chủ nghĩa quân phiệt của Mỹ.

Vào tháng 9 28, 2001, Công nhân xã hội trang web được xuất bản báo cáo của 15 nhà văn và nhà hoạt động với tiêu đề “Tại sao chúng ta nói không với chiến tranh và hận thù”. Họ bao gồm Noam Chomsky, Hiệp hội Cách mạng Phụ nữ Afghanistan và tôi (Medea). Tuyên bố của chúng tôi nhắm vào các cuộc tấn công của chính quyền Bush vào các quyền tự do dân sự trong và ngoài nước, cũng như các kế hoạch gây chiến ở Afghanistan.

Học giả và tác giả quá cố Chalmers Johnson đã viết rằng vụ 9/11 không phải là một cuộc tấn công vào Hoa Kỳ mà là “một cuộc tấn công vào chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ”. Edward Herman dự đoán “thương vong dân sự lớn”. Matt Rothschild, biên tập viên của Sự tiến bộ tạp chí, đã viết rằng, “Cứ mỗi người vô tội mà Bush giết trong cuộc chiến này thì sẽ có năm hoặc mười tên khủng bố xuất hiện.” Tôi (Medea) đã viết rằng "một phản ứng quân sự sẽ chỉ tạo thêm lòng căm thù đối với Mỹ, quốc gia đã tạo ra nạn khủng bố này ngay từ đầu."

Phân tích của chúng tôi là chính xác và dự đoán của chúng tôi đã được biết trước. Chúng tôi khiêm tốn đề nghị rằng các phương tiện truyền thông và các chính trị gia nên bắt đầu lắng nghe những tiếng nói của hòa bình và sự tỉnh táo thay vì những lời nói dối, ảo tưởng của những kẻ hiếu chiến.

Điều dẫn đến những thảm họa như cuộc chiến của Mỹ ở Afghanistan không phải là sự thiếu vắng những tiếng nói phản chiến thuyết phục mà là hệ thống chính trị và truyền thông của chúng ta thường xuyên gạt ra ngoài lề và phớt lờ những tiếng nói như của Barbara Lee, Ben Ferencz và của chính chúng ta.

Đó không phải là vì chúng tôi sai và những tiếng nói hiếu chiến mà họ lắng nghe là đúng. Họ gạt chúng ta ra ngoài lề chính xác vì chúng ta đúng còn họ sai, và bởi vì những cuộc tranh luận nghiêm túc, hợp lý về chiến tranh, hòa bình và chi tiêu quân sự sẽ gây nguy hiểm cho một số chính quyền quyền lực và tham nhũng nhất. được cho tiền lời thống trị và kiểm soát nền chính trị Hoa Kỳ trên cơ sở lưỡng đảng.

Trong mọi cuộc khủng hoảng chính sách đối ngoại, sự tồn tại của khả năng hủy diệt to lớn của quân đội chúng ta và những huyền thoại mà các nhà lãnh đạo của chúng ta cổ võ để biện minh cho điều đó đều hội tụ trong một loạt các lợi ích ích kỷ và áp lực chính trị nhằm khơi dậy nỗi sợ hãi của chúng ta và giả vờ rằng có những “giải pháp” quân sự cho chúng ta. họ.

Thất bại trong Chiến tranh Việt Nam là một sự kiểm tra thực tế nghiêm túc về giới hạn sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ. Khi các sĩ quan cấp dưới từng chiến đấu ở Việt Nam thăng cấp để trở thành nhà lãnh đạo quân sự của Mỹ, họ đã hành động thận trọng và thực tế hơn trong 20 năm tiếp theo. Nhưng sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã mở ra cánh cửa cho một thế hệ những kẻ hiếu chiến mới đầy tham vọng, những người quyết tâm lợi dụng Hoa Kỳ thời hậu Chiến tranh Lạnh. “cổ tức quyền lực.”

Madeleine Albright đã lên tiếng ủng hộ giống diều hâu chiến tranh mới đang nổi này khi bà đối đầu với Tướng Colin Powell vào năm 1992 với câu hỏi của cô ấy, “Có được đội quân tuyệt vời này để làm gì nếu chúng ta không thể sử dụng nó?”

Là Ngoại trưởng trong nhiệm kỳ thứ hai của Clinton, Albright đã thiết kế đầu tiên của một loạt về các cuộc xâm lược bất hợp pháp của Hoa Kỳ nhằm tạo dựng một Kosovo độc lập từ những tàn tích tan hoang của Nam Tư. Khi Ngoại trưởng Anh Robin Cook nói với cô rằng chính phủ của ông đang "gặp rắc rối với luật sư của chúng tôi" về tính bất hợp pháp của kế hoạch chiến tranh của NATO, Albright nói rằng họ chỉ nên "có được luật sư mới".

Trong những năm 1990, những người theo chủ nghĩa tân bảo thủ và những người theo chủ nghĩa can thiệp tự do đã bác bỏ và gạt ra ngoài lề ý tưởng cho rằng các cách tiếp cận phi quân sự, không cưỡng bức có thể giải quyết hiệu quả hơn các vấn đề chính sách đối ngoại mà không phải chịu sự khủng khiếp của chiến tranh hoặc chết chóc. chế tài. Vận động hành lang chiến tranh lưỡng đảng này sau đó đã khai thác vụ tấn công 9/11 để củng cố và mở rộng quyền kiểm soát của họ đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.

Nhưng sau khi chi hàng nghìn tỷ đô la và giết chết hàng triệu người, kỷ lục tồi tệ về việc gây chiến của Hoa Kỳ kể từ Thế chiến II vẫn là một kinh cầu bi thảm về sự thất bại và thất bại, ngay cả theo cách riêng của nó. Các cuộc chiến tranh duy nhất mà Hoa Kỳ giành chiến thắng kể từ năm 1945 là các cuộc chiến tranh giới hạn nhằm giành lại các tiền đồn thuộc địa mới nhỏ ở Grenada, Panama và Kuwait.

Mỗi lần Hoa Kỳ mở rộng tham vọng quân sự của mình để tấn công hoặc xâm chiếm các quốc gia lớn hơn hoặc độc lập hơn, kết quả đều rất thảm khốc.

Vậy là nước ta vô lý đầu tư 66% chi tiêu liên bang tùy ý cho vũ khí hủy diệt, đồng thời tuyển dụng và đào tạo thanh niên Mỹ sử dụng chúng, không giúp chúng ta an toàn hơn mà chỉ khuyến khích các nhà lãnh đạo của chúng ta gây ra bạo lực và hỗn loạn vô nghĩa đối với các nước láng giềng trên khắp thế giới.

Hầu hết các nước láng giềng của chúng ta giờ đây đã hiểu rằng các lực lượng này và hệ thống chính trị rối loạn của Hoa Kỳ vốn luôn cho phép họ sử dụng chúng là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và khát vọng của chính họ về dân chủ. Rất ít người ở các nước khác muốn bất kỳ phần nào của Chiến tranh của nước Mỹhoặc Chiến tranh Lạnh được hồi sinh chống lại Trung Quốc và Nga, và những xu hướng này thể hiện rõ nhất ở các đồng minh lâu năm của Mỹ ở châu Âu và tại “sân sau” truyền thống của Mỹ ở Canada và Mỹ Latinh.

Vào ngày 19 tháng 2001 năm XNUMX, Donald Rumsfeld đã giải quyết Các phi hành đoàn máy bay ném bom B-2 tại Whiteman AFB ở Missouri khi họ chuẩn bị cất cánh vòng quanh thế giới để trả thù những người dân đau khổ lâu dài ở Afghanistan. Ông nói với họ: “Chúng ta có hai lựa chọn. Hoặc chúng ta thay đổi cách sống hoặc chúng ta phải thay đổi cách họ sống. Chúng tôi chọn cái sau. Và bạn chính là người sẽ giúp đạt được mục tiêu đó.”

Bây giờ cái đó đang rơi trên 80,000 bom và tên lửa nhằm vào người dân Afghanistan trong 20 năm đã không thay đổi được cách sống của họ, ngoài việc giết chết hàng trăm nghìn người và phá hủy nhà cửa của họ, thay vào đó, như Rumsfeld đã nói, chúng ta phải thay đổi cách chúng ta sống.

Cuối cùng chúng ta nên bắt đầu bằng việc lắng nghe Barbara Lee. Đầu tiên, chúng ta nên thông qua dự luật của bà để bãi bỏ hai AUMF sau ngày 9/11 đã gây ra thất bại kéo dài 20 năm của chúng ta ở Afghanistan và các cuộc chiến khác ở Iraq, Syria, Libya, Somalia và Yemen.

Sau đó chúng ta nên chuyển hóa đơn của cô ấy để chuyển hướng 350 tỷ USD mỗi năm từ ngân sách quân sự của Hoa Kỳ (cắt giảm khoảng 50%) để “tăng cường năng lực ngoại giao và các chương trình trong nước nhằm giữ cho Đất nước và người dân của chúng ta an toàn hơn”.

Cuối cùng, việc kiềm chế chủ nghĩa quân phiệt ngoài tầm kiểm soát của Mỹ sẽ là một phản ứng khôn ngoan và phù hợp trước thất bại kinh hoàng của nước này ở Afghanistan, trước khi chính những lợi ích tham nhũng đó kéo chúng ta vào những cuộc chiến thậm chí còn nguy hiểm hơn chống lại những kẻ thù đáng gờm hơn Taliban.

Medea Benjamin là đồng sáng lập của CODEPINK vì hòa bìnhvà tác giả của một số cuốn sách, bao gồm Bên trong Iran: Lịch sử và Chính trị thực sự của Cộng hòa Hồi giáo Iran

Nicolas JS Davies là một nhà báo độc lập, một nhà nghiên cứu với CODEPINK và là tác giả của Máu trên tay chúng ta: Cuộc xâm lược và hủy diệt của người Mỹ ở Iraq.

Bình luận

Chúng tôi sẽ không công khai email của bạn. Các ô đánh dấu * là bắt buộc *

Bài viết liên quan

Lý thuyết về sự thay đổi của chúng tôi

Làm thế nào để kết thúc chiến tranh

Thử thách vận động vì hòa bình
Sự kiện phản chiến
Giúp chúng tôi phát triển

Các nhà tài trợ nhỏ giúp chúng tôi tiếp tục phát triển

Nếu bạn chọn đóng góp định kỳ ít nhất $ 15 mỗi tháng, bạn có thể chọn một món quà cảm ơn. Chúng tôi cảm ơn các nhà tài trợ định kỳ của chúng tôi trên trang web của chúng tôi.

Đây là cơ hội để bạn tưởng tượng lại một world beyond war
Cửa hàng WBW
Dịch sang bất kỳ ngôn ngữ nào